Trong bối cảnh toàn cầu đối mặt với các thách thức về biến đổi khí hậu, suy giảm tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường và yêu cầu tiêu dùng bền vững, nước ta đã xác định tăng trưởng xanh là định hướng chiến lược và là giải pháp cốt lõi để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững. Điều này đã được thể hiện rõ qua Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021–2030, tầm nhìn đến năm 2050 tại Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 1/10/2021; chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 tại Quyết định số 150/QĐ-TTg ngày 28/01/2022 và các chính sách liên quan khác.
Tăng trưởng xanh trong nông nghiệp không chỉ là xu hướng mà là yêu cầu tất yếu, góp phần đảm bảo an ninh lương thực, bảo vệ môi trường và thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu. Đó là một mô hình nông nghiệp áp dụng đồng bộ các quy trình kỹ thuật tiên tiến, sử dụng tài nguyên một cách hiệu quả, tái chế phụ phẩm, xử lý chất thải, giảm phát thải khí nhà kính và sản xuất ra sản phẩm an toàn, chất lượng cao. Thực chất, đây là sự tích hợp của các mô hình như nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp thông minh...
Trong thời gian qua, hoạt động Khuyến nông đã đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, xây dựng mô hình thực tiễn và lan tỏa giá trị của nông nghiệp xanh. Nhiều mô hình khuyến nông điển hình đã mang lại hiệu quả rõ rệt: mô hình canh tác lúa hữu cơ đã trở thành mô hình điển hình tiên phong tiêu biểu.Mô hình liên kết sản xuất, tiêu thụ lúa hữu cơ đã liên kết với Công ty Cổ phần Tổng Công ty Thương mại Quảng Trị (Viết tắt là Sepon Group). Mô hình này được triển khai tại nhiều huyện như: Triệu Phong, Gio Linh, Vĩnh Linh, Hải Lăng với diện tích gần 70ha. Toàn bộ quá trình sản xuất sử dụng phân hữu cơ, không phun thuốc bảo vệ thực vật hoá học. Sepon Group ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm với giá cao hơn thị trường từ 10–20%, giúp tăng thu nhập bình quân từ 5-7 triệu đồng/ha. Các hợp tác xã nông nghiệp hữu cơ như: HTX Canh tác tự nhiên Triệu Phong, HTX Nông sản sạch ở Cam Lộ, Gio Linh, Vĩnh Linh đã thực hiện các mô hình canh tác lúa hữu cơ, không sử dụng thuốc BVTV có nguồn gốc hóa học, thân thiện với môi trường, nhờ vậy các sản phẩm gạo hữu cơ đã có mặt tại các siêu thị lớn hay các chuỗi cửa hàng bán lẽ trong và ngoài tỉnh.
Các mô hình CSA (nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu) dự án triển khai tại các huyện trong tỉnh giúp giảm phát thải khí nhà kính nhờ áp dụng các biện pháp tưới ướt khô xen kẽ ở những vùng chủ động nước, sử dụng phân đạm hạt vàng nhã chậm giúp tăng cường khả năng hấp thụ đạm của cây trồng và giảm bớt tình trạng bốc hơi và rửa trôi, sử dụng chế phẩm Trichoderma phân hủy gốc rạ trên đồng ruộng giúp giảm tình trạng ngộ độc phèn cải thiện đất, và kiểm soát các tác nhân gây bệnh, tăng khả năng hấp thụ dinh dưỡng của cây, giúp cây khỏe mạnh hơn từ đó giảm lượng phân bón và thuốc BVTV.
Mô hình trồng dưa hấu phủ bạt nilon tại xã Phong Bình, huyện Gio Linh. Nhờ kỹ thuật phủ bạt nilon hạn chế cỏ dại, giữ ẩm và hạn chế sâu bệnh, năng suất dưa hấu đạt bình quân gần 20 tấn/ha, tăng khoảng 15% so với phương pháp truyền thống, lợi nhuận bình quân đạt từ 60–80 triệu đồng/ha/vụ. Mô hình này là minh chứng điển hình của tăng trưởng xanh trong sản xuất ngắn ngày, giảm thiểu việc sử dụng thuốc trừ cỏ và hóa chất, bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng và cải tạo môi trường đất canh tác nhờ hạn chế xói mòn và giữ độ ẩm đất tự nhiên.
Đặc biệt, mô hình trồng ngô sinh khối vụ Hè Thu liên kết tiêu thụ sản phẩm với Sepon Group đã mở ra hướng đi hiệu quả cho chuyển đổi cây trồng trên đất cát và đất lúa kém hiệu quả. Mô hình này thể hiện đặc trưng của nông nghiệp tuần hoàn và chuỗi giá trị khép kín: sử dụng toàn bộ sinh khối làm thức ăn chăn nuôi tại chỗ giúp giảm chi phí vận chuyển, tiết kiệm thức ăn trong chăn nuôi, đồng thời giảm phát thải khí nhà kính và nâng cao chuỗi giá trị nội tỉnh.
Bên cạnh đó đa dạng mô hình canh tác xanh trên các đối tượng như Tiêu, cà phê, dược liệu:Chương trình khuyến nông Quảng Trị góp phần thúc đẩy mạnh mẽ các mô hình sản xuất theo tiêu chuẩn sạch và hướng đến hữu cơ cho các loại cây trồng đặc sản như hồ tiêu, cà phê Arabica, chè vằng, cà gai leo, an xoa...góp phần gia tăng giá trị sản phẩm và mở rộng thị trường. Diện tích cà phê Arabica hiện đạt gần 4.000 ha tại Hướng Hóa, mở ra cơ hội cho việc ứng dụng công nghệ và chuỗi liên kết trong sản xuất bền vững.Các chương trình đào tạo tập huấn nông dân được tổ chức thường xuyên hình thành mạng lưới chuyển giao tri thức xanh và khuyến khích nông dân tự chủ trong sản xuất.
Định hướng phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ, tuần hoàn và công nghệ cao tại Quảng Trị hoàn toàn phù hợp với tinh thần của Chỉ thị số 38-CT/TU ngày 20/8/2024 của Tỉnh ủy Quảng Trị. Chỉ thị đã xác định rõ nông nghiệp xanh là trụ cột trong tái cấu trúc kinh tế nông thôn, trong đó nhấn mạnh chuyển đổi mô hình canh tác theo hướng hữu cơ, hữu cơ, tuần hoàn, thông minh và gắn với chuỗi giá trị. Một điểm then chốt được nêu trong chỉ thị là yêu cầu phát triển hạ tầng chế biến và bảo quản sau thu hoạch, thúc đẩy liên kết bền vững giữa nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp, từ đó nâng cao giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh của nông sản Quảng Trị trên thị trường Quốc tế.
Tuy nhiên, tỉnh Quảng Trị vẫn còn đối mặt nhiều thách thức: quy mô sản xuất nhỏ lẻ, hạn chế vốn đầu tư, thiếu hạ tầng chế biến và bảo quản sau thu hoạch, trong khi chính sách tín chỉ carbon, bảo hiểm nông nghiệp và hỗ trợ chính sách các sản phẩm hữu cơ vẫn đang ở giai đoạn thử nghiệm và còn nhiều khó khăn tồn tại:
Tư duy và thói quen sản xuất truyền thống khó thay đổi: Nông dân đã quen sử dụng phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, chất kích thích sinh trưởng vì dễ sử dụng, cho hiệu quả nhanh, giá thành rẻ; Giá thành sản phẩm cao, khó cạnh tranh, các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ, xanh thường có chi phí sản xuất cao hơn sản phẩm truyền thống do quy trình nghiêm ngặt, năng suất chưa ổn định.Thị trường tiêu thụ sản phẩm xanh chưa phát triển mạnh, dẫn đến đầu ra khó khăn, giá cả không ổn định.Thiếu liên kết chuỗi giá trị, sản xuất còn manh mún, nhỏ lẻ, mối liên kết tiêu thụ yếu dẫn đến khó xây dựng chuỗi cung ứng bền vững, thiếu thương hiệu và truy xuất nguồn gốc rõ ràng; Trình độ tiếp cận công nghệ còn hạn chế, đa số nông dân chưa được đào tạo bài bản về kỹ thuật canh tác xanh, công nghệ số, nông nghiệp thông minh.Việc ứng dụng công nghệ cao còn rất thấp, chủ yếu tập trung ở một số địa phương, doanh nghiệp lớn; Tác động của biến đổi khí hậu và thị trường, như hạn hán, lũ lụt, sâu bệnh, xâm nhập mặn... ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp, làm tăng rủi ro và chi phí.Biến động thị trường, thay đổi xu hướng tiêu dùng khiến nông dân khó xác định định hướng sản xuất phù hợp.
Để sản xuất nông nghiệp theo hướng tăng trưởng xanh có hiệu quả cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp:
Nhân rộng những mô hình sản xuất hiệu quả, thàng công đã được khẳng định trong thời gian vừa qua như các mô hình sản xuất lúa hữu cơ, mô hình sản xuất áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật, mô hình giảm phát thải khí nhà kính, giảm ô nhiễm môi trường...
Không lạm dụng thuốc BVTV, chỉ sử dụng thuốc BVTV khi thật sự cần thiết và khi sử dụng cần tuân theo nguyên tắc 4 đúng. Giảm lượng phân bón vô cơ các loại, nhất là đạm hóa học, khuyến khích sử dụng các loại phân hữu cơ.Áp dụng phương pháp tưới tiêu khoa học, nông lộ phơi đối với những vùng chủ động nước tưới. Quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng, nhất là giao thông nội đồng, kênh mương thủy lợi.
Tập trung thực hiện có hiệu quả các chương trình của tỉnh về nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Trong đó cần chú trọng cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Lựa chọn và sắp xếp thứ tự ưu tiên lộ trình thực hiện các nhiệm vụ để tạo sự chuyển biến tăng trưởng xanh của toàn ngành nông nghiệp.
Khuyến khích cá nhân, tổ chức, nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao KHCN mới, công nghệ cao vào sản xuất, chế biến các sản phẩm nông nghiệp. Tăng cường ứng dụng công nghệ kỹ thuật số vào sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế chính sách để huy động nguồn lực, thu hút doanh nghiệp đầu tư nhiều vào các dự án mới, nhất là các dự án sản xuất hàng hóa có giá trị cao, chế biến các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh để đem lại giá trị và hiệu quả cao.
Phát triển nông nghiệp xanh nên gắn với du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng tạo ra những sản phẩm nông nghiệp xanh, sạch, đẹp, an toàn để thu hút khách đến tham quan, nghĩ dưỡng và tiêu thụ sản phẩm.
Xác định rõ định hướng phát triển chủ đạo mang tính đột phá cho các ngành, lĩnh vực theo hướng phát triển bền vững, hiệu quả cả về kinh tế, xã hội và môi trường.
Nguyễn Tùng, Lê Tú - TTKN