HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CHĂN NUÔI LỢN NÁI ĐẺ VÀ NUÔI CON

Thứ hai - 24/03/2025 21:40
Trong chăn nuôi lợn bền vững, giai đoạn chăn nuôi lợn nái đẻ và nuôi con đóng vai trò hết sức quan trọng, nó trực tiếp ảnh hưởng đến hiệu quả chăn nuôi lợn thịt sau này. Vì vậy, để đảm bảo lợn mẹ đẻ an toàn, có sức khỏe tốt, ít hao mòn và sớm động dục trở lại sau đẻ; lợn con sinh ra khỏe mạnh, có tỷ lệ nuôi sống cao, trọng lượng cai sữa lớn, giảm thiểu mọi nguy cơ có thể xảy ra đối với lợn mẹ và lợn con thì chúng ta cần phải nắm vững và thực hiện tốt kỹ thuật chăn nuôi lợn nái đẻ và nuôi con.
HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT CHĂN NUÔI  LỢN NÁI ĐẺ VÀ NUÔI CON
1. Chuẩn bị ô chuồng cho lợn nái đẻ và nuôi con
      Lợn con mới sinh ra có khả năng kháng bệnh rất thấp, lợn mẹ vừa trải qua việc sinh đẻ bị mất sức nên hoạt động của hệ miễn dịch cũng bị giảm sút. Vì vậy nên bố trí chuồng đẻ cho lợn mẹ. Chuồng đẻ cần phải được vệ sinh và khử trùng sạch và để trống chuồng trước khi đưa lợn mẹ vào đẻ tối thiểu là 7 ngày. Nên chuyển lợn nái lên chuồng đẻ trước 7 ngày (so với ngày dự kiến đẻ) để lợn thích nghi với chuồng mới trước khi đẻ. Phải tắm sạch cho lợn mẹ trước khi chuyển lên chuồng đẻ nhằm giảm tối đa nguồn lây nhiễm trực tiếp cho lợn con và chính bản thân lợn mẹ. 
2. Trực đỡ đẻ cho lợn.
    Xác định ngày lợn đẻ chính xác thông qua phiếu theo dõi ngày thụ tinh cho lợn và thời gian mamg thai của lợn 114 ngày (có thể đẻ trước hoặc sau 3-5 ngày). 
    - Quan sát những biểu hiện sắp đẻ của lợn: Trước khi đẻ khoảng 5 - 6 giờ, lợn thường thể hiện như bồn chồn, hay đứng lên, nằm xuống hoặc đi lại, ăn ít hoặc có con bỏ ăn, lợn có biểu hiện làm ổ, hai chân cào xuống nền chuồng, âm hộ sưng to, đỏ, bầu vú căng. Khi sắp đẻ, đuôi lợn nái giật giật, có biểu hiện co thắt bên sườn, âm hộ có chảy ối ra ngoài, bầu vú căng và đỏ, có hiện tượng sữa chảy rỉ ra hoặc chảy ra khi vắt thử.
2.1. Chuẩn bị
- Chuẩn bị dụng cụ: Kéo, pank kẹp, xi lanh, kim tiêm, chỉ, bông, cồn sát trùng, gel bôi trơn, bột lăn, Khăn lau, găng tay…
- Chuẩn bị một số thuốc cần thiết: Oxytoxin, kháng sinh, thuốc cầm máu, giảm đau, hạ sốt, thuốc an thần...
- Chuẩn bị ổ úm lợn con: Vào mùa đông, khi lợn con sinh ra, khả năng tự điều tiết thân nhiệt của lợn chưa tốt, nhiệt độ môi trường thích hợp cho lợn con là 33 - 35oC. Vì vậy, nếu gặp thời tiết quá lạnh sẽ rất dễ gây chết lợn hoặc gây bệnh. 
    Cách làm ổ úm: Ổ úm có kích thước khoảng (dài 1m x rộng 0,8 - 1m x cao 0,6 - 0,8 m), được làm bằng gỗ hoặc bằng cót sau đó quây phủ ngoài bằng vỏ bao. Ổ úm có làm lỗ 30 cm x 30 cm để lợn con chui ra chui vào. Đáy ổ úm có lót rơm làm đệm lót để lợn nằm tránh tiếp xúc với nền chuồng lạnh. Bật bóng sưởi trong ổ úm để làm ấm ngay khi đỡ đẻ cho lợn.
2.2. Đỡ đẻ cho lợn
* Đỡ đẻ khi lợn đẻ thường
- Khi lợn con vừa được đẻ ra, ta dùng khăn khô lau sạch dịch vùng mũi và miệng. Cầm hai bên hông của lợn con theo hướng đầu chúc xuống đất, xốc nhẹ lợn con để dịch từ đường hô hấp chảy ra ngoài. Lau khô lợn con bằng khăn sạch, hoặc dùng bột phấn (bột lăn lợn con) xoa khắp toàn thân.
- Cắt rốn: Dùng chỉ thắt rốn, để lại 3 - 4 cm. Cắt bỏ phần thừa sau nút thắt và sát trùng đầu cuống rốn bằng cồn i ốt. 
-  Đặt lợn con vào ô úm để sưởi ấm (trường hợp trời lạnh, nhiệt độ chuồng nuôi thấp).
- Chờ lợn đẻ xong lấy hết nhau thai, vệ sinh sạch sẽ chuồng.
Chú ý: Giữ yên tĩnh khi lợn mẹ đẻ.
* Hỗ trợ khi lợn chậm đẻ, đẻ chậm, đẻ khó
- Chậm đẻ: Theo dõi lợn quá ngày dự kiến đẻ mà lợn chưa có biểu hiện đẻ, ta tiêm hỗ trợ hoóc môn prostagladin (PGF2α) cho lợn mẹ.
- Đẻ chậm: Tổng thời gian đẻ của lợn nái từ 2,5 - 3,5 giờ. Khoảng cách thời gian giữa hai lần lợn con được sinh ra từ 10-15 phút. Sau 20 phút không thấy lợn nái đẻ con tiếp theo thì coi là đẻ chậm. Biểu hiện của đẻ chậm, đẻ khó: Lợn nái rặn nhiều, nhưng thời gian dài (>20 phút) không ra thai. Thân nhiệt cao dần, lợn thở khó khăn, thở hổn hển. Có trường hợp lợn nái tấn công con mình. Lợn nái kiệt sức dần, sau đó ngừng rặn đẻ.
Cách can thiệp: 
+ Kích thích lợn mẹ bằng cách cọ sát, mát xa bầu vú để kích thích tử cung co bóp. Đuổi lợn nái đứng dậy để thai trượt xuống tử cung, cần thực hiện nhẹ nhàng, không gây ức chế hoặc căng thẳng cho những nái không muốn đứng lên. 
+ Tiêm oxytoxin hỗ trợ với liều từ 2,0 ml/con, kết hợp tăng sức khỏe cho lợn bằng tiêm glucose. (chú ý chỉ sử dụng oxytoxin trong trường hợp lợn mẹ rặn đẻ yếu và lợn mẹ đã đẻ được con đầu tiên). 
+ Trường hợp đã can thiệp bằng tiêm Oxytocin mà không thấy thai ra thì chúng ta phải can thiệp bằng tay: Dùng găng tay cao su, bôi trơn bằng gel. Chụm các ngón tay lại, đưa vào đường sinh dục của lợn nái, luồn tay từ từ qua khung xương chậu, gặp cổ tử cung thì duỗi thẳng ngón tay để kiểm tra thai. Nếu thai sai tư thế phải xoay lại cho thuận chiều và kéo ra.
3. Chăm sóc lợn con
Cho lợn con sơ sinh bú sữa đầu càng sớm càng tốt để có nguồn kháng thể giúp lợn con phòng chống bệnh bệnh, đồng thời sữa đầu là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng cần thiết cho sinh trưởng của lợn con. Khả năng hấp thụ kháng thể của lợn con tốt nhất trong những giờ đầu sau khi sinh. Sau khi lợn con khô lông, thả lợn con vào cho bú mẹ, cho những con nhỏ hơn vào bú trước, bú những vú phía ngực; sau đó cho những con to hơn bú những vú phía sau. Nên cho lợn con bú sữa ngay trong quá trình lợn mẹ đang đẻ. Trong trường hợp lợn mẹ đẻ nhiều con, có thể cho lợn con bú theo nhóm. Cho nhóm bé bú trước, nhóm lớn hơn bú sau, mỗi nhóm bú khoảng 30-40 phút. Khi lợn con bú xong, đưa lợn con về ô úm.
4. Chăm sóc, nuôi dưỡng lợn mẹ.
      Để phòng tránh lợn nái mắc các bệnh về sinh sản như Viêm vú, viêm tử cung, tử cung lộn ra ngoài… thì trước khi đẻ 3 ngày nên giảm lượng thức ăn của lợn nái, cho lợn uống đủ nước và cho ăn thức ăn giàu dinh dưỡng, không cho lợn nái ăn quá no. Trong ngày đẻ chỉ cho lợn ăn nhẹ, sau khi đẻ xong cho lợn ăn từng ít 1 và tăng dần đến ngày thứ 7 thì cho lợn ăn theo khẩu phần định lượng.  
      Lượng thức ăn cho lợn nái nuôi con được xác định dựa trên khối lượng và thể trạng của lợn mẹ, số lượng lợn con nuôi. Để xác định lượng thức ăn cho lợn nái nuôi con có thể tham khảo công thức như sau:
Lượng thức ăn/nái/ngày = 2kg + (số lợn con x 0,35 kg)
Ví dụ: Lợn nái đẻ nuôi 10 con lượng thức ăn được tính như sau:
    Lượng thức ăn/ngày = 2 kg + (10 x0,35) = 5,5 kg.
Văn Thị Hằng - Trạm Chăn nuôi và Thú y huyện Hải Lăng

Tổng số điểm của bài viết là: 1 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 1 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây