Triệu chứng điển hình của bệnh chết héo trên cây Keo là: trên thân hoặc cành cây bị bệnh có những vết loét, thâm hoặc vết lõm ở phần vỏ cây. Vỏ và gỗ xung quang vị trí vết bệnh bị đổi màu đậm hơn bình thường, có thể chảy nước hoặc sùi bọt. Phần gỗ ở vị trí vết bệnh bị biến màu, gỗ thường bị chuyển sang màu nâu đen hoặc màu xanh đen. Khi vỏ cây và gỗ bị chuyển màu, tán lá bắt đầu héo, nhưng lá vẫn chưa rụng. Sau một thời gian, lá bị khô, rụng và cây chết.
Bệnh chết héo là loại bệnh nguy hiểm, nguy cơ phát thành dịch cao, đã gây chết hàng triệu ha rừng trồng keo tại Indonesia và Malaysia. Tại Việt Nam, bệnh chết héo được ghi nhận từ năm 2008. Đến nay, tổng diện tích rừng trồng keo bị bệnh chết héo thống kê được 17 tỉnh là trên 2.000ha. Kết quả theo dõi định kỳ hàng năm cho thấy bệnh chết héo đang có xu hướng lan rộng và tăng nặng hơn theo thời gian. Để phòng trừ bệnh chết héo cây keo kịp thời, tránh nguy cơ bùng phát thành dịch, gây thiệt hại lớn đến sản xuất lâm nghiệp, bà con trồng rừng lưu ý các khuyến cáo sau đây.
1. Các biện pháp phòng bệnh:
- Hạn chế trồng keo ở nơi có lượng mưa bình quân trên 2.400 mm/năm. Ở nơi đã xuất hiện bệnh, cần xử lý thực bì và làm đất theo khuyến cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhằm loại bỏ hoặc diệt trừ mầm bệnh. Nên trồng hỗn giao theo lô, các lô cạnh nhau cần trồng giống cây hoặc loài cây khác nhau. Cần luân canh loài cây, giống cây giữa các chu kỳ, đặc biệt từ chu kỳ 2 trở đi.
- Chuẩn bị đất trồng rừng: Xử lý thực bì trước khi trồng 3 tháng; thu gom thực bì, cành nhánh sau khai thác, băm nhỏ, xếp theo đường đồng mức, xử lý bằng vôi bột với liều lượng 1-2% vôi bột so với tổng khối lượng vật liệu cần xử lý hoặc có thể đốt thực bì có kiểm soát. Đào hố trước khi trồng ít nhất 1 tháng; bón vôi (0,3-0,5 kg/hố) và trộn đều với đất trong hố ngay sau khi đào hố; phơi ải hố ít nhất 2 tuần sau khi bón vôi; sử dụng các chế phẩm phòng chống mối, kiến trước khi trồng. Tuân thủ đúng quy trình kỹ thuật trồng keo của Bộ Nông nghiệp và PTNT. Sử dụng chế phẩm vi sinh vật hỗn hợp MF1, chế phẩm sinh học từ nấm đối kháng Trichoderma và vi khuẩn đối kháng Bacillus subtilis bón vào hố trước khi trồng, liều lượng 10 g/hố.
- Chuẩn bị cây giống: Sử dụng các giống chưa phát hiện bị bệnh hoặc tỷ lệ bị bệnh thấp như keo lai AH7, keo lá tràm AA9, keo tai tượng xuất xứ Úc (hạt).... Trước khi trồng từ 1-3 ngày, phun một trong các loại thuốc như Metaxyl 500WP, Manozeb 80WP, Lanomyl 680WP, Ridomid Gold 68WG... để phòng bệnh cho cây con.
- Đối với các lô rừng được trồng từ chu kỳ 3 trở lên có dấu hiệu giảm năng suất so với chu kỳ trước, cần bón bổ sung phân vi lượng (trong đó có Bo), liều lượng 1 g/cây.
- Những nơi đất có độ dốc thấp (dưới 15o), nếu trồng rừng keo từ chu kỳ 3 trở lên cần chú ý loại bỏ gốc cây cũ, làm đất toàn diện, xử lý đất bằng vôi bột (1,5-2 tấn/ha).
- Quá trình bảo vệ, chăm sóc, nuôi dưỡng rừng, cần tránh không gây tổn thương đến thân, cành, rễ của cây, nhất là cây trồng ở độ tuổi 1-3; sử dụng phân có hàm lượng đạm thấp khi bón thúc; phòng trừ côn trùng đục thân cành. Tỉa cành vào mùa khô, tiến hành tỉa đầu cành khi cây đạt 5-6 tháng tuổi, cây cao trên 1,2m; với các đợt tỉa cành sau sử dụng cưa hoặc kéo cắt cành để tỉa cành, tỉa sát thân với các cành có đường kính trên 1cm, với cành nhỏ hơn 1cm có thể tỉa cách thân 10cm, không chế gây tổn thương phần gốc cành.
2. Xử lý khi rừng bị bệnh
2.1. Đối với rừng kinh doanh
- Thường xuyên kiểm tra, giám sát tình hình bệnh hại ít nhất 1 lần/tháng để sớm phát hiện bệnh và phòng trừ kịp thời.
- Khi phát hiện rừng bị bệnh chết héo cây keo:
+ Nếu tỷ lệ cây bị bệnh bình quân của lô rừng dưới 15% thì tiến hành chặt, mang ra khỏi rừng và đốt tiêu hủy; giữ lại các cây chưa có triệu chứng bị bệnh. Không tận thu các cây bị bệnh chết héo, không vận chuyển sang nơi khác.
+ Nếu tỷ lệ cây bị bệnh bình quân từ 16 - 50% thì tiến hành chặt, mang ra khỏi rừng và tiêu hủy các cây bị chết héo. Đồng thời, áp dụng biện pháp hóa học cục bộ theo đám (khi cây chết theo đám) hoặc toàn bộ lô (khi cây chết rải rác). Phun trừ bệnh bằng một trong các loại thuốc như Metaxyl 500WP, Manozeb 80WP, Lanomyl 680WP, Ridomid Gold 68WG... Chú ý pha thuốc với chất bám dính, nồng độ 3g hoạt chất/lít, liều lượng 400-600 lít dung dịch/ha, phun nhắc lại 2 lần, mỗi lần cách nhau 15 ngày.
+ Nếu tỷ lệ cây bị bệnh bình quân trên 50% thì thanh lý rừng theo quy định của pháp luật.
2.2. Đối với vườn ươm
- Vườn giống cây đầu dòng: Khi phát hiện có cây bị bệnh chết héo trong vườn thì tạm ngừng việc lấy hom nhân giống để tiến hành các biện pháp xử lý đối với cây bị bệnh như xử lý cây bị bệnh rừng trồng đã nêu ở trên. Trong quá trình chăm sóc vườn cây đầu dòng, kết hợp tưới hoặc bón phân có thành phần nấm Trichoderma vào quanh gốc cây theo định kỳ.
- Đối với vườn ươm giống: Xử lý bầu đất (tạo đất ruột bầu) cây giống bằng phân vi sinh tổng hợp (gồm vi khuẩn cố định đạm, vi khuẩn phân giải lân và vi khuẩn đối kháng nấm) để diệt mầm bệnh giúp cây con phát triển khỏe mạnh, tăng khả năng kháng bệnh. Nếu trên vườn phát hiện bệnh chết héo thì tạm ngừng toàn bộ việc dâm hom đợt mới để tiến hành xử lý vườn như sau:
+ Đối với số cây hiện đã gieo ươm thì thu thập toàn bộ cây đã chết và cây có biểu hiện bị bệnh (toàn cây và bầu đất) tập trung vào hố lớn để đốt. Đối với cây chưa có biểu hiện bị bệnh thì tập trung vào luống khác, nhưng phải xử lý nền luống và bầu cây trước. Việc xử lý như sau: Tưới chế phẩm nấm Trichoderma (các loại chế phẩm vi sinh có thành phần nấm Trichoderma) vào bầu và nền luống để diệt trừ nấm bệnh, sau đó rắc vôi bột với liều lượng 0,3 - 0,5 kg/m2 mặt luống.
+ Sau khi xử lý hết toàn bộ cây bị bệnh trên vườn, tiến hành vệ sinh vườn ươm sạch sẽ, khơi thông mương máng đảm bảo thoát nước tốt, tránh ứ đọng nước. Đồng thời xử lý bằng vôi bột trên toàn bộ vườn ươm với liệu lượng 0,3-0,5kg/m2 và chế phẩm nấm Trichoderma. Tưới chế phẩm Trichoderma thực hiện định kỳ 10-15 ngày/1 lần và liều lượng theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Trong quá trình chăm sóc cây, tuỳ điều kiện thời tiết việc tưới nước chỉ nên đảm bảo vừa đủ ẩm không nên tưới quá nhiều.
Nguyễn Thị Ngân – Trạm KN huyện Triệu Phong (Tổng hợp)